Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”([1]). Từ đó, cho chúng ta thấy rằng đảng viên là nhân tố cơ bản nhất, năng động nhất của tổ chức đảng. Vai trò của tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là “sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng”([2]). Do đó, nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình hiện nay rất quan trọng và cấp thiết để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh toàn diện, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, các nhiệm vụ chính trị và xây dựng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đưa ra phương hướng: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”.

Đảng bộ tỉnh Trà Vinh hiện có 13 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy([3]), 502 tổ chức cơ sở đảng (197 đảng bộ, 305 chi bộ cơ sở; 04 Đảng bộ bộ phận; 2.005 chi bộ trực thuộc Đảng uỷ cơ sở và Đảng uỷ bộ phận), với tổng số 46.226 đảng viên([4]), chiếm tỷ lệ trên 4,5% so với dân số toàn tỉnh.

Qua đánh giá tổng kết 10 năm lãnh đạo, chỉ đạo về xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đánh giá toàn diện các mặt đạt được, cũng như các hạn chế và nguyên nhân cụ thể, rõ ràng. Cấp uỷ các cấp đã quán triệt các chủ trương và thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh uỷ, công tác xây dựng Ðảng ở cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh và đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ vững, phát huy được vai trò nền tảng của Đảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở bảo đảm cho đường lối của Đảng đi vào cuộc sống. Công tác kết nạp đảng viên được cấp ủy các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện đạt được một số kết quả tích cực. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở được chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo tiêu chuẩn đáp ứng nhiệm vụ được giao. Ðội ngũ đảng viên ở cơ sở được tăng thêm về số lượng và nâng cao chất lượng; trình độ, kiến thức các mặt được nâng lên. Nhiều cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên đã được rèn luyện, thử thách, trưởng thành qua thực tiễn công tác; kiên định lập trường giai cấp công nhân, trung thành với chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Ðảng; gương mẫu đi đầu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, công tác xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn còn một số hạn chế nhất định. Một số cấp uỷ chưa thực sự coi trọng công tác xây dựng Đảng; chưa tập trung xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng; nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống đối với cán bộ, đảng viên ở cơ sở chưa đúng mức, tính định hướng, tính chiến đấu và tính giáo dục, thuyết phục chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy cấp trên một số nơi còn yếu, chưa đủ sức phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở. Công tác tạo nguồn kết nạp đảng viên trong doanh nghiệp và học sinh, sinh viên trong các Trường học trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn, hạn chế. Vai trò giám sát của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên chưa được phát huy đúng mức.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình hiện nay”.  Cấp ủy các cấp nghiên cứu, vận dụng  một số giải pháp thực hiện, như sau:

1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền phong gương mẫu, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo có giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên; kiên định chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ động dự báo được tình hình để kịp thời trang bị những thông tin cần thiết, có định hướng của Ðảng cho cán bộ, đảng viên. Ðổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo và học tập lý luận chính trị; chú ý bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên kỹ năng lãnh đạo, quản lý và kỹ năng giải quyết những tình huống cụ thể xảy ra ở cơ sở. Chủ động khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý tưởng; chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, vụ lợi, trung bình chủ nghĩa. Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh kiên quyết chống các quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI, XII, Khoá XIII) gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục  thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”, các quy định về nêu gương. Tăng cường lãnh đạo đấu tranh khắc phục, phòng ngừa có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên.

2. Hoàn thiện mô hình tổ chức đối với các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội; chăm lo kết nạp đảng viên

Lãnh đạo xây dựng mô hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Qua đó sắp xếp kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng sau khi kiện toàn sắp xếp về mặt chuyên môn và sắp xếp tổ chức đảng dưới 10 đảng viên có chức năng, nhiệm vụ tương đồng. Tiếp tục thực hiện chủ trương bí thư cấp uỷ là thủ trưởng cơ quan, đơn vị; thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân, bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân ở nơi có đủ điều kiện. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cấp uỷ viên, đặc biệt là người đứng đầu cấp uỷ phải đủ bản lĩnh chính trị, năng lực, khả năng lãnh đạo, điều hành hoạt động của tổ chức đảng. Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh về tiêu chuẩn chính trị đối với người tham gia vào cấp uỷ.

Ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ, cấp uỷ xây dựng Nghị quyết, đề ra nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện và được cụ thể hoá thành kế hoạch hằng năm để tổ chức thực hiện. Thường xuyên quan tâm bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp đảng viên; phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của tổ chức chính trị - xã hội trong xây dụng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên.

3. Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.

Có chính sách trẻ hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên ở cơ sở đảm bảo tiêu chuẩn các chức danh được bố trí; có chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài; có cơ chế, chính sách để giải quyết đối với những cán bộ chưa được chuẩn hóa nhưng chưa đủ tuổi, đủ năm công tác để nghỉ theo chế độ. Lựa chọn cán bộ dân tộc Khmer, cán bộ trẻ để đào tạo nâng cao trình độ học vấn, lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ tạo nguồn cán bộ cho cơ sở.

Ðổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở theo chức danh cán bộ; chú ý bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết những tình huống cụ thể ở cơ sở. Hằng năm, lựa chọn cán bộ chuyên trách, cấp ủy viên cơ sở để bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới.

Lãnh đạo thực hiện tốt quy định về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ. Bổ sung, sửa đổi các quy định, hướng dẫn về đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên theo hướng đánh giá đúng thực chất và phù hợp với tình hình từng loại hình tổ chức cơ sở Đảng.

Thực hiện thí điểm việc đại hội đảng bộ cơ sở bầu trực tiếp cấp ủy, ban thường vụ, bí thư và phó bí thư.Ðối với những nơi có khó khăn về cán bộ, có thể vận dụng linh hoạt hơn chủ trương chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ.

Các tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp, thực hiện thống nhất chủ trương thủ trưởng cơ quan, đơn vị hoặc một đồng chí lãnh đạo của cơ quan, đơn vị trực tiếp làm bí thư cấp ủy. Trong các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện thống nhất chủ trương chủ tịch hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc (giám đốc) đồng thời là bí thư cấp ủy. Đối với những doanh nghiệp không có vốn của Nhà nước cấp uỷ cấp trên phối hợp với chủ doanh nghiệp lựa chọn những đảng viên có phẩm chất, năng lực để tham gia cấp uỷ và Bí thư cấp uỷ.

4. Nâng cao chất lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.

Tập trung lãnh đạo củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ nghiêm kỷ luật, tăng cường đoàn kết trong Ðảng. Thường xuyên giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ, kiến thức và năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Các cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định kỳ. Nội dung sinh hoạt chi bộ phải cụ thể, thiết thực, giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc xảy ra ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Mỗi quý, các chi bộ cần sinh hoạt chuyên đề ít nhất một lần để bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho đảng viên trong chi bộ.

Việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng cần tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, thiết thực, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI, XII, XIII) và việc học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kịp thời phát hiện và nêu gương những đảng viên tiền phong gương mẫu, có thành tích xuất sắc và giáo dục, giúp đỡ những đảng viên có sai phạm, uy tín thấp. Thi hành kỷ luật nghiêm minh đối với đảng viên vi phạm Ðiều lệ Ðảng và rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Ðảng.

Cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng thường xuyên kiểm tra, uốn nắn việc thực hiện nền nếp, nội dung, chất lượng sinh hoạt của các chi bộ. Các đồng chí cấp ủy viên, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp phải chăm lo chỉ đạo công tác xây dựng Ðảng ở nơi mình đang sinh hoạt và phải chịu trách nhiệm khi tổ chức cơ sở đảng nơi mình sinh hoạt yếu kém.

Thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy về kỹ năng cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên; về biện pháp quy tụ, tập hợp quần chúng, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị ở cơ sở để thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.

5. Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên; dựa vào dân để xây dựng Ðảng.

Cấp ủy cấp trên phải nắm chắc tình hình cơ sở, phân công cấp ủy viên trực tiếp phụ trách cơ sở, kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở. Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy cấp trên phải có nội dung ngắn gọn và dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ quy trách nhiệm. Cán bộ lãnh đạo, quản lý và các cấp ủy viên cấp trên của tổ chức cơ sở đảng phải bố trí thời gian để gặp gỡ đảng viên và nhân dân tại cơ sở, giải quyết kịp thời những kiến nghị chính đáng của đảng viên và nhân dân; bảo vệ những cán bộ tốt, trung thực, thẳng thắn đấu tranh chống tiêu cực.

Các chi bộ phải thực hiện tốt việc phân công công tác cho đảng viên, bảo đảm mọi đảng viên trong chi bộ đều được phân công công tác phù hợp. Ðối với những đảng viên là cán bộ nghỉ hưu, sức khỏe yếu và tự nguyện, được chi bộ và cấp ủy cơ sở đề nghị, cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng xem xét miễn sinh hoạt và công tác. Những đảng viên 2 năm liền xếp loại vi phạm tư cách thì đưa ra khỏi Ðảng bằng hình thức phù hợp.

Đổi mới, nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên phù hợp với tình hình từng loại hình tổ chức cơ sở Đảng. Ðánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, sự vững mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng phải kiểm tra, thẩm định chặt chẽ và chịu trách nhiệm về kết quả đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Biểu dương, khen thưởng những tổ chức cơ sở đảng, đảng viên có thành tích xuất sắc và tuyên truyền, phổ biến để nhân rộng.

Thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng theo chương trình công tác hàng năm; Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị “về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm”; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2011 của Ban Chấp hành Trung ương “về những điều đảng viên không được làm”. Cấp ủy cơ sở phải giám sát đảng viên về các mặt, kể cả đảng viên là cán bộ do cấp ủy cấp trên quản lý. Kịp thời xử lý, kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm.

 Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc vận động nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên ở địa bàn dân cư; tổ chức tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh cán bộ theo quy định.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên”. Do đó, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên trong giai đoạn hiện nay yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải chấp hành nghiêm quy chế, quy định, Điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước. 

NGUYỄN VĂN GỌN - Trưởng phòng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên, Ban Tổ chức Tỉnh ủy.

 

 


[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 113

[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 8,  tr. 288

([3]). Có 09 đảng bộ cấp huyện; 04 đảng bộ trực thuộc Tỉnh uỷ.

([4]). Có 14.416 đảng viên nữ; 8034 đảng viên Khmer; 292 đảng viên sinh viên, học sinh.

1 2 
VĂN BẢN MỚI
Thống kê truy cập
  • Đang online: 5
  • Hôm nay: 137
  • Trong tuần: 1 285
  • Tất cả: 750378